Quản lý tốt tảo trong ao tôm có thể giúp giảm vibrio

Quản lý tốt tảo trong ao tôm có thể giúp giảm vibrio

Nghiên cứu mới cho thấy rằng cân bằng mật độ tảo trong ao nuôi tôm có thể ngăn chặn sự phát triển của Vibrio, bao gồm cả Vibrio parahaemolyticus - tác nhân gây bệnh EMS / AHPND.

Có một số hành động có thể được thực hiện để tránh AHPND. Đầu tiên là đảm bảo rằng tất cả các nguồn đầu vào trang trại không có vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus. Prakan Chiarahkhongman, một chuyên gia về sức khỏe tôm của Charoen Pokphand (CP) Foods Thái Lan, đã từng tóm tắt rằng có ba quy trình chính để tránh AHPND: giống sạch, nước sạch và ao sạch. Theo ông, những bước này là một trong những hành động thành công để khôi phục sản xuất sau khi bùng phát EMS.

 

Tôm chết sớm do V. parahaemolyticus gây ra cũng buộc người nuôi phải nỗ lực gấp đôi để đảm bảo rằng nguồn giống và nguồn nước đầu vào không có vi khuẩn này. Người nuôi hiện đã bắt đầu kiểm tra định kỳ nước biển trước khi bơm vào ao và sẽ hoãn thả giống cho đến khi thực sự chắc chắn rằng nước biển không chứa vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.

 

Tối ưu hóa mật độ tảo

 

Sau khi thực hiện các biện pháp phòng ngừa, có một số cách tiếp cận để giúp ngăn ngừa AHPND khi chu kỳ nuôi đang diễn ra. Một trong những cách hiệu quả nhất là giữ cho tảo ở mức tối ưu để ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn Vibrio.

 

Theo chuyên gia sức khỏe tôm từ CPP của Cục Thú y, Heny Budi Utari, ngoài việc sản xuất ra oxy và là yếu tố đầu tiên trong chuỗi thức ăn, tảo còn cung cấp bóng râm trong nước giúp tôm con thoải mái và khỏe mạnh. Vì chúng đến từ các trại giống được kiểm soát chặt chẽ, tôm giống có thể bị căng thẳng khi chuyển đến ao nuôi. Nếu môi trường không thoải mái cho tôm, hệ thống miễn dịch của chúng có thể yếu đi và điều này có thể bị lợi dụng bởi các vi khuẩn gây bệnh cơ hội như Vibrios. Do đó, theo Utari, tảo nên được tạo ra trước khi thả tôm giống.

 

Tuy nhiên, tảo cần phải được duy trì với số lượng và thành phần loài tối ưu. Sự nở hoa hoặc số lượng tảo giảm mạnh có thể làm cho các thông số chất lượng nước dao động mạnh. Tảo chết hàng loạt có thể làm cho vi khuẩn Vibrio phát triển mạnh. Nó cũng có thể gây căng thẳng cho tôm và khiến vi khuẩn Vibrio dễ dàng lây nhiễm, tấn công hệ tiêu hóa của chúng.

 

Dựa trên quan sát của Utari, tôm bị nhiễm vi khuẩn Vibrios có thể sống sót cho đến khi thu hoạch, miễn là vấn đề được xử lý nhanh chóng. Một trong những dấu hiệu của bệnh Vibriosis là sự hiện diện của tôm chết ở đáy ao và cống trung tâm, trước đó là sự suy giảm nghiêm trọng của quần thể tảo trong ao. Trong tình huống này, theo Utari, người nông dân có thể đảm bảo chất lượng nước ổn định bằng cách hút đáy ao và bổ sung nước mới từ ao chứa của họ, mà họ cần đảm bảo đã được chuẩn bị tốt mật độ và chủng loài tảo.

 

Cần giảm cho ăn để giảm thiểu việc bổ sung chất thải hữu cơ từ thức ăn và phân. Thức ăn có thể được bổ sung các chế phẩm sinh học như BacillusLactobacillus - hoặc vitamin C và các thành phần miễn dịch khác - để cải thiện sức khỏe của tôm. Sau đó, người nuôi nên gây tảo và tạo sự cân bằng mới của chúng bằng một số biện pháp xử lý, như bổ sung CaCO3 hoặc CaMg (CO3)2, vi khuẩn nitrat hóa … để tạo điều kiện hỗ trợ tảo phát triển.

 

Utari nói rằng sự cân bằng của thực vật phù du sẽ trở lại sau 3-7 ngày và sau đó có thể tiếp tục nuôi tôm cho đến khi thu hoạch. Cô ấy nói thêm rằng thậm chí có thể sản xuất tôm đến cỡ 20 con/kg sau khi nhiễm vi khuẩn Vibrio.

 

Một nghiên cứu của Kamilia và cộng sự đã chỉ ra rằng mật độ và thành phần của tảo trong ao có ảnh hưởng tuyến tính đến năng suất của ao. Nghiên cứu cho thấy rằng các ao có khối lượng tảo lớn hơn có năng suất cao hơn các ao có khối lượng thấp hơn. Trong nghiên cứu đó, mật độ tảo lên đến 220.000 tế bào/ml vẫn cho thấy tác động tích cực. Thành phần chủng loài tảo càng đa dạng thì càng hạn chế sự phát triển của Vibrios.

 

Trong một hội thảo trên web gần đây được thực hiện bởi Diễn đàn Tôm Indonesia (Forum Udang Indonesia / FUI), một nông dân nuôi tôm kỳ cựu, Hardi Pitoyo, cũng đã nói về tầm quan trọng của sự cân bằng của thực vật phù du. Khuê tảo thuộc lớp Bacillariophyceae và tảo lam (BGA) là hai nhóm tảo mà ông nghiên cứu. Ông cho rằng tảo cát có hàm lượng protein tốt, nhưng quá dễ chết, vì vậy nên bổ sung thêm BGA. Tuy nhiên, ông nói thêm rằng không nên cho phép bản BGA chiếm ưu thế, vì nó có thể gây độc cho tôm.

 

Ngoài ra, Pitoyo nói thêm rằng sự thống trị của BGA có thể là một chỉ báo về chất lượng nước không ổn định, vì tảo này có thể thích nghi với các điều kiện khắc nghiệt.

 

Theo https://thefishsite.com