Phân trắng nghiêm trọng và EHP buộc người nuôi tôm châu Á phải thu hoạch tôm kích cỡ nhỏ

Phân trắng nghiêm trọng và EHP buộc người nuôi tôm châu Á phải thu hoạch tôm kích cỡ nhỏ

Nếu tôm bị nhiễm EHP trước, chúng nhiều khả năng bị phân trắng. Nhiễm EHP làm tổn thương gan tụy và mở ra cơ hội cho bất kỳ sự lây nhiễm thứ cấp nào

Sự kết hợp giữa EHP và bệnh phân trắng là vấn đề nghiêm trọng đối với người nuôi tôm châu Á trong năm nay. Đây và tham luận trong một hội thảo trên web (Webinar) trong năm nay do TARS (The Aquaculture Roundtable Series) dẫn dắt.

 

Do tỷ lệ mắc phải phân trắng và EHP ngày càng tăng, tỷ lệ sống của tôm nuôi tại Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam giảm đáng kể buộc người nuôi phải thu tôm ở giai đoạn còn nhỏ.

 

Theo Loc Tran, Giám đốc ShrimpVet Lab của Việt Nam, cả hai có sự kết hợp gây hại như vậy vì chúng hoạt động song song với nhau. Tình trạng tiền nhiễm EHP, vốn chỉ có thể phát hiện được ở mức độ vi mô, khiến tôm dễ mắc bệnh WFD (phân trắng) hơn ...Loc Tran cũng cho biết nếu tôm bị nhiễm EHP trước, chúng nhiều khả năng bị phân trắng. Nhiễm EHP làm tổn thương gan tụy và mở ra cơ hội cho bất kỳ sự lây nhiễm thứ cấp nào. Có hai loại bệnh bùng phát, loại chỉ bị phân trắng thì có thể phục hồi được, nếu tôm bị cả EHP lẫn phân trắng cùng hiện diện thì không giải quyết được.

 

Cả hai loại bệnh này đều đang là vấn đề nan giải với người nuôi tôm châu Á. Nó làm suy giảm nghiêm trọng tốc độ tăng trưởng của tôm và tăng gấp đôi hệ số thức ăn.

 

Các diễn giả từ Ấn Độ, Indonesia và Thái Lan đều lưu ý rằng họ đã thấy các trường hợp liên quan đến cặp bệnh này tăng dần khoảng 5-10% mỗi năm, và năm 2020 cũng không khác gì ....

 

Theo Ravikumar Bangarusamy -  Tổng giám đốc kỹ thuật của công ty thức ăn tôm Growel tại Ấn độ - 60% các trang trại tôm tại Ấn độ đã bị phân trắng trong năm 2020. Ông cho biết: “Kể từ năm 2014, nó tăng 10-15% mỗi năm, ngoài ra, bạn có thể thấy năng suất tôm trên một tỷ PL tôm giống đang giảm và thành công vụ mùa cũng giảm dần theo từng năm. Ban đầu, người nuôi nghĩ rằng nó xảy ra phổ biến ở mô hình nuôi thả mật độ cao, nhưng bây giờ thì không phân biệt mật độ thả nữa. Có nhiều đợt bùng phát dịch bệnh hơn và các đợt ngày càng nặng hơn”.

 

Soraphat Panakorn, một chuyên gia nuôi tôm của chi nhánh công ty công nghệ sinh học Novozymes ở Thái Lan nói thêm rằng : “Không chỉ có nhiều trường hợp mắc WFD hơn, mà chúng còn xảy ra sớm hơn trong quá trình nuôi thương phẩm. Trước đây, tôm bị phân trắng trong giai đoạn 60 – 70 ngày tuổi, nhưng hiện nay thì tôm có thể mắc bệnh ở giai đoạn 35 ngày tuổi”.

 

Haris Muhtadi, chủ tịch bộ phận thức ăn thủy sản tại Hiệp hội các nhà máy thức ăn chăn nuôi Indonesia (GPMT), lưu ý rằng đối với người nuôi ở đất nước của ông, phân trắng đang gây ra nhiều vấn đề hơn cả bệnh đốm trắng trước đây. Mặc dù các bệnh như hoại tử cơ do virus (IMNV) vẫn còn phổ biến, nhưng người nuôi Indonesia vẫn có khả năng kiểm soát tốt hơn bệnh WFD.

 

Dữ liệu từ 800 trang trại nuôi tôm Ấn Độ do Ravikumar trình bày chỉ ra rằng một khi tôm được nuôi lớn hơn kích cỡ 100 con/kg, khả năng sống sót đã bắt đầu giảm mạnh.

 

Trong các ao bị ảnh hưởng bởi WFD, tỷ lệ sống trung bình ở Ấn Độ năm nay từ mức trung bình 87% ở kích thước 100 con rớt xuống chỉ còn 50% đối với tôm lớn hơn, khoảng 30 con/kg. Ở kích thước lớn hơn, tỷ lệ này chỉ còn khoảng 20-30% so với tỷ lệ sống trong các ao không bị ảnh hưởng bởi bệnh.

 

Với những ao có kích cỡ 100 con/kg, không có nhiều khác biệt về tỷ lệ sống. Thông thường, phân trắng xuất hiện vào khoảng 50 – 60 ngày thả nuôi. Khi tôm đạt kích thước 40 – 60 con/kg thì có sự giảm tỷ lệ sống đột ngột. Sự tử vong này diễn ra chậm và không dễ nhận thấy.

 

Chi phí sản xuất cũng tăng đáng kể. Ở size 30 con/kg chi phí tăng từ mức trung bình 3.95 USD/kg thành 4.63 USD/kg đối với những ao nhiễm bệnh.

 

Ở Thái Lan, Panakorn lưu ý rằng sau khi nói chuyện với khoảng 20 người nuôi trước khi đến với hội thảo thì được biết tỷ lệ sống dường như dao động rộng từ 70-80%  đến chỉ còn 30% trong trường hợp xấu nhất. Chúng tôi nhận thấy rằng phân trắng thường xuất hiện nhiều trong mùa mưa, nhưng năm nay nó tăng gấp đôi.

 

Tại Indonesia, tỷ lệ sống trung bình giảm từ 70% còn 50% trong vài năm qua.

 

Giải quyết mối đe dọa phân trắng

 

Mặc dù bệnh đã trở thành mối đe dọa nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nuôi tôm, nhưng cũng có nhiều trường hợp thực hành nuôi tôm rất tốt và giảm thiểu thiệt hại do phân trắng gây ra.

 

Tuy vậy, cần phải thực tế. Điều kiện tiên quyết để người nuôi có thể thực hành nuôi tốt và chống lại phân trắng là cần có tiền, Loc Tran cho biết.

 

“Tại Việt Nam, người nuôi hiểu được áp lực về dịch bệnh là rất cao, do đó rất khó có thể nuôi tôm theo kiểu truyền thống, vì vậy nhiều người nuôi đã đầu tư nhiều hơn vào thiết kế trang trại và cho phép họ có thể nuôi được nhiều giai đoạn trong một vụ nuôi.

 

Bằng cách phân chia vụ nuôi thành bốn giai đoạn khác nhau, tôm sẽ được giữ tách biệt nhau ở các giai đoạn khác nhau này, mật độ cũng giảm dần qua từng giai đoạn và qua đó giảm stress cho tôm cũng như gia tăng được tốc độ tăng trưởng qua từng giai đoạn trong chu kỳ sản xuất.

 

Giai đoạn đầu tiên mất bốn tuần, cho đến khi con vật có trọng lượng một gam. Tiếp theo, tôm giống được chuyển sang một ao lớn hơn, với mật độ thả 200-300 con/m2 trong 30 ngày. Giai đoạn thứ ba nuôi tôm với mật độ 150 - 200 con/m2 trong 30-35 ngày nữa, khi đó tôm phải đạt 25-30g mỗi con. Sau đó người nuôi có thể thu hoạch hoặc có thể chuyển tôm sang một cái ao rất lớn và nuôi tôm ở mật độ 50-70 con mỗi mét vuông và cho phép con vật phát triển đến hơn 50 gam/con. Bằng cách đó, họ có thể làm giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh, nhiễm độc nitrit và bệnh do Vibriosis”

 

Ravikumar cũng cho biết thêm là cũng có thể kiểm soát dịch bệnh bằng chiến lược sử dụng chế phẩm sinh học với tần suất 3 ngày/lần. Việc này cần bắt đầu 10 ngày trước khi thả giống, hành động này rất quan trọng. Trong vòng 50 ngày đầu sau khi thả, nên áp dụng 2 liều cho nước và 01 liều cho đất và chuyển đổi tỷ lệ này sau 50 ngày khi mà thức ăn đầu vào tăng lên.

 

“Mỗi lần chúng ta chỉ sử dụng 100 - 200g probiotic sau khi lên men. Và nếu đó là probiotic cho đất, tôi khuyên bạn nên lên men kỵ khí và bón vào ban đêm; probiotic cho nước thì lên men hiếu khí và bón vào ban ngày. Khi chúng tôi tuân theo quy trình này, chúng tôi không gặp vấn đề với phân trắng, nhưng khi tôm đạt 25 g, chúng tôi gặp vấn đề “hội chứng chết liên tục” (running mortality syndrome), tuy nhiên đó là vấn đề liên quan đến sức chứa của ao nuôi”.

 

Xem đầy đủ TARS WEBINAR tại đây.

 

Nguồn: https://www.undercurrentnews.com/

 

Lược dịch bởi: Ngọc Hân Mai – VPAS JSC