Nuôi và sinh sản cả cảnh biển – cơ hội trị giá 5 tỷ đô la
Nuôi và kinh doanh các loài sinh vật biển làm cảnh - bao gồm cá, động vật giáp xác và san hô - cho phân khúc người chơi cá cảnh là một ngành công nghiệp trị giá 5 tỷ đô la. Đây là một lĩnh vực tương đối mới và thường bị các nhà sản xuất nuôi trồng thủy sản chính thống bỏ qua. Ngoài việc mang lại tỷ suất lợi nhuận đáng kể, ngành này cũng mang lại cơ hội to lớn cho các cộng đồng ven biển ở các nước đang phát triển.
Việc sản xuất thủy sản cho con người sử dụng đã được chú ý trong vài thập kỷ qua, ngành nuôi trồng thủy sản cảnh tương đối ít người biết đến. Điều này không phải vì nó thiếu tiềm năng, ngành công nghiệp cá cảnh toàn cầu hiện có giá trị 12 tỷ đô la và với tốc độ tăng trưởng 7%, dự kiến sẽ đạt gần 20 tỷ đô la vào năm 2026. Tổng doanh thu bán sinh vật cảnh nước ngọt và nước biển toàn cầu hàng năm đạt khoảng 5 tỷ đô la. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, 15 triệu hộ gia đình sở hữu bể cá, với 2,5 triệu hộ nuôi cá biển. Khoảng 20% tổng thương mại là các loài sinh vật biển.
Mặc dù cá cảnh nước ngọt, chẳng hạn như cá vàng và cá koi, được nuôi rộng rãi, đặc biệt là ở Đông Nam Á và Đài Loan, cá biển và động vật không xương sống chủ yếu được đánh bắt trong tự nhiên. Người ta ước tính rằng khoảng 50 triệu động vật rạn san hô (bao gồm cá, san hô và các động vật không xương sống khác) được đánh bắt và bán hàng năm cho những người chơi cá cảnh biển.
Hầu hết các sinh vật cảnh biển phổ biến đều đến từ các khu vực nhiệt đới ấm áp như Đông Nam Á (đặc biệt là Philippines và Indonesia), Caribê và Biển Đỏ. Trước đây, chúng bị đánh bắt bằng cách sử dụng các phương pháp hủy diệt như natri xyanua. Tuy nhiên, các sáng kiến đánh bắt bằng lưới tay và thực hành quản lý tốt hơn gần đây đã thay đổi cảnh quan biển.
Với tình trạng suy thoái hiện nay của hầu hết các rạn san hô trên thế giới do nhiệt độ nước biển ngày càng tăng, bão mạnh hơn, ô nhiễm và đánh bắt quá mức, rất khó để các rạn san hô phục hồi. Chính vì vậy việc nuôi và cho sinh sản các loài sinh vật cảnh biển là một gợi ý đáng quan tâm. Hiện đã bắt đầu có nhiều người nuôi và công ty thực hiện việc thuần hóa, sinh sản chúng để cung cấp cho thị trường giàu tiềm năng này.
Phải mất một thời gian để cá cảnh nuôi nhốt mới có thể cạnh tranh được với nguồn đánh bắt tự nhiên, nhưng xu hướng đó hiện đang đảo ngược. Như Deuss giải thích “Thị trường đang thay đổi nhanh chóng. Ngày càng có nhiều sự quan tâm từ những người mua thích cá được sản xuất bền vững”
Theo Deuss (nhà sáng lập và là CEO của công ty Bocas Mariculture), với việc người tiêu dùng ngày càng có ý thức hơn về môi trường, các nhà bán buôn và bán lẻ ngày càng bị áp lực để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng, đồng thời thích ứng với sự thay đổi chính sách với những hạn chế chặt chẽ hơn đối với việc buôn bán cá tự nhiên. Một số quốc gia thậm chí đang thảo luận về các lệnh cấm buôn bán cá cảnh biển đánh bắt tự nhiên.
Công ty Bali Aquarich tập trung vào sản xuất các loài có giá trị cao, đặc biệt là cá thần tiên biển được đánh giá cao. Các mẫu vật hoang dã được bán lẻ với giá vài trăm đô la trở lên, nhưng không thích nghi tốt với điều kiện nuôi nhốt - dễ bị stress hoặc bệnh tật. Trong khi đó, cá thần tiên được nuôi nhốt rất cứng cáp, được điều chỉnh hoàn toàn trong môi trường nuôi nhốt bằng thức ăn nhân tạo, do đó mang lại giá trị cao hơn, theo Wen-Ping. Bali Aquarich cũng đã phát triển một số giống cá thần tiên biển lai tạo, mang lại cho công ty một lợi thế kinh doanh cực kỳ có giá trị.
Một trại sản xuất giống cá hồi chỉ tập trung vào việc nhân giống cá hồi và giải quyết các vấn đề cụ thể của cá hồi, các nhà lai tạo cá cảnh thường sản xuất 10 đến 20 loài trở lên cùng lúc, mỗi loài có những thách thức riêng cần vượt qua, đó là một nhiệm vụ đáng suy nghĩ để thực hiện.
Wen-Ping (nhà sáng lập và là CEO của công ty Bali Aquarich) giải thích rằng việc sản xuất cá cảnh và cá thịt đòi hỏi những cách tiếp cận hoàn toàn khác nhau. Cá thịt có thể được sản xuất và bán với số lượng lớn. Ngược lại, doanh thu bán cá cảnh thường nhỏ và đa dạng. Ông nói: “Nói chung, cá cảnh yêu cầu chất lượng nước, môi trường và dinh dưỡng cao hơn nhiều so với nuôi cá thịt”.
Bên cạnh việc phát triển các cá thể bố mẹ có thể đẻ trứng trong điều kiện nuôi nhốt, một thành phần quan trọng để đổi mới là tìm nguồn thức ăn sống cho ấu trùng mới nở. Thức ăn phải phù hợp với yêu cầu dinh dưỡng của chúng nhằm đảm bảo sự phát triển và tồn tại thích hợp. Deuss đã nỗ lực rất nhiều vào việc này và ông tự hào giải thích rằng bên cạnh việc sản xuất một số loài tảo và các chủng luân trùng khác nhau, ông còn tự mình phân lập một số loài động vật chân đốt địa phương. Copepods là động vật phù du đóng vai trò là nguồn thức ăn quan trọng cho nhiều loài cá biển nhưng khó nuôi hơn nhiều so với luân trùng. Giờ đây, ông nuôi những con giáp xác chân chèo này với số lượng đủ cho trại giống của mình, đồng thời ông cũng nuôi một số loại khác làm nguồn thức ăn bổ sung.
Có rất nhiều loài có kiểu sinh sản đặc biệt, yêu cầu về dinh dưỡng và chất lượng nước cũng đặc biệt. Các phương pháp thông thường mà các cơ sở sản xuất giống sử dụng không thể đáp ứng nhu cầu của nhiều ấu trùng cá cảnh biển. Trứng càng lớn thì ấu trùng và cá con càng lớn, làm cho việc nuôi cá con dễ dàng hơn. Kích thước trứng trung bình đối với cá biển là khoảng 1 mm, với trứng cá hồi thậm chí có thể đạt tới 5 mm. Tuy nhiên, trứng của một số loài cá cảnh chỉ bằng một phần ba milimet.
Theo kinh nghiệm, những người nuôi cá thịt chính thống có thể học hỏi nhiều điều từ các nhà lai tạo cá cảnh và động vật không xương sống và sẽ thật tuyệt nếu thấy được sự hợp tác nhiều hơn nữa giữa hai ngành trong tương lai. Mặc dù việc nuôi các loài sinh vật cảnh biển có thể không đạt được quy mô như sản xuất cá thịt thông thường, nhưng hoạt động buôn bán đang bắt đầu mang lại lợi nhuận đáng kể cho những người tiên phong, đồng thời mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương và tất nhiên là cả đại dương.
Nguồn: https://thefishsite.com/
Lược dịch bởi: KS Nguyễn Thành Quang Thuận – VPAS JSC
- Những phát hiện gần đây về nhiễm ký sinh trùng EHP
- Tái phân bổ năng lượng giúp tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei phản ứng lại stress nhiệt
- Khảo sát cho thấy sự phổ biến của độc tố nấm mốc trong thức ăn chăn nuôi và thủy sản
- Vật liệu sinh học mới có thể giúp chống lại tình trạng kháng kháng sinh ở cá
- Cách cá phát triển khả năng miễn dịch với bệnh tật
- Vi khuẩn có rất nhiều hình dạng
- Vibrio tubiashii FP17 gây bệnh trên ốc hương nuôi
- Các nhà khoa học phát triển một "giải pháp xanh" mới để điều trị vi khuẩn Streptococcus ở cá vược sọc lai - hybrid striped bass