Cải thiện hiệu quả sản xuất giống ở “xứ xở cá trê phi”
Zarraga, ở Iloilo, còn được gọi là “xứ sở cá trê phi”, nhưng Zarraga Pantat Fingerlings đã phải vật lộn để theo kịp nhu cầu của người mua do các vấn đề gặp phải ở trại giống như tỷ lệ nở thấp và tỷ lệ chết cao của cá con.
Larry Pañoso, người phụ trách các hoạt động sản xuất giống tại Zarraga Pantat, cho biết họ đã có được một bước đột phá vào tháng giêng khi sản lượng đạt mức cao nhất mọi thời đại là 500.000 cá bột mỗi tuần sau khi SEAFDEC/AQD) đã giúp giải quyết vấn đề về nguồn nước của trại giống.
Vào đầu năm 2020, trại giống chỉ sản xuất 60.000 cá bột mỗi tuần và sản lượng bắt đầu giảm hơn nữa vào tháng 6 năm 2020 khi trứng không nở được.
“Chúng tôi không biết tại sao điều này lại xảy ra, chúng tôi đã tự hỏi tại sao điều này lại đột ngột xảy ra sau một vài tháng sản xuất ổn định”, Pañoso nói với SEAFDEC.
Dan Baliao, Giám đốc của SEAFDEC / AQD cho biết nước của cơ sở giống quá cứng đối với trứng cá trê và ảnh hưởng đến quá trình nở của chúng. Điều này xảy ra sau khi trung tâm cử một nhà hóa học, một nhà sinh vật học về cá, các nhà vi sinh vật học và kỹ sư để đánh giá tổng thể các hoạt động của trại giống.
Một trong những giếng sâu đóng vai trò là nguồn nước chính của trang trại đã đạt đến mức độ cứng cao tới 500 phần triệu (ppm), trong khi mức độ cứng của nước để ấp trứng lý tưởng là từ 30 đến 60 ppm.
Độ cứng đề cập đến lượng canxi cacbonat có trong nước - nước tinh khiết được coi là mềm, dưới 50 ppm, trong khi nước cứng trên 170 ppm và là đặc trưng của nước ngầm.
Theo lời khuyên của Tiến sĩ Rolando Paking Jr, một nhà khoa học tại SEAFDEC/AQD, Pañoso trộn nước mưa, một nguồn nước mềm, với nước từ giếng sâu được sử dụng trong trại giống để giảm mức độ cứng của nước trong bể ấp trứng.
Pañoso cho biết: “Kể từ đó, chúng tôi không gặp phải bất kỳ vấn đề nào nữa và liên tục sản xuất cá bột cho khách hàng.
Pañoso cũng nói với SEAFDEC / AQD rằng họ đang nâng cấp độ an toàn sinh học trong trại giống bằng cách khử trùng cá bố mẹ và trứng sau mỗi đợt sinh sản. Họ cũng đã trở nên chú ý hơn trong việc giám sát các thông số nước.
Paking nhấn mạnh: “Các thông số của nước như pH, độ mặn và độ cứng quan trọng đối với việc nuôi các loài các nước ngọt, vì vậy việc giám sát thường xuyên là một phần không thể thiếu của thực hành nuôi trồng thủy sản tốt”.
Baliao cho biết, với nhu cầu ngày càng tăng về việc hỗ trợ kỹ thuật trong ngành nuôi trồng thủy sản, trung tâm nghiên cứu đang làm việc để cung cấp các chuyên gia của mình nhiều hơn nhằm giúp đỡ những người nuôi cá.
Ông nói thêm: “Chúng tôi đã đưa ra chính sách của mình để khuyến khích sự tham gia trực tiếp của các chuyên gia, để thúc đẩy việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.
Nguồn: https://thefishsite.com/
Dịch bởi: NGỌC HÂN MAI – VPAS JSC
- Những phát hiện gần đây về nhiễm ký sinh trùng EHP
- Tái phân bổ năng lượng giúp tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei phản ứng lại stress nhiệt
- Khảo sát cho thấy sự phổ biến của độc tố nấm mốc trong thức ăn chăn nuôi và thủy sản
- Vật liệu sinh học mới có thể giúp chống lại tình trạng kháng kháng sinh ở cá
- Cách cá phát triển khả năng miễn dịch với bệnh tật
- Vi khuẩn có rất nhiều hình dạng
- Vibrio tubiashii FP17 gây bệnh trên ốc hương nuôi
- Các nhà khoa học phát triển một "giải pháp xanh" mới để điều trị vi khuẩn Streptococcus ở cá vược sọc lai - hybrid striped bass