Giống sạch bệnh (SPF) và giống kháng bệnh (SPR)
Tôm sạch mầm bệnh (SPF - Specific Pathogen Free)
Liên quan đến nghĩa chính xác của SPF, ở Châu Á đang có sự lẫn lộn nghiêm trọng. Chẳng hạn, rất nhiều người tin rằng những con tôm sạch mầm bệnh có khả năng kháng bệnh và không thể nhiễm những mầm bệnh virus mà chúng gặp phải trong quá trình nuôi. Điều này rõ ràng là không đúng. SPF có nghĩa là những con tôm này đã được đảm bảo là không có một số mầm bệnh. SPF chỉ ám chỉ đến tình trạng mầm bệnh hiện tại đối với một số mầm bệnh chứ không đề cập đến khả năng kháng bệnh hay tình trạng mầm bệnh tương lai (Lozt, 1997).
Những con tôm SPF đích thực là những con tôm được sản xuất tại những cơ sở nuôi an toàn sinh học, được kiểm tra nhiều lần và được nhận định là sạch mầm bệnh thông qua việc sử dụng rất nhiều các quy tắc quan trắc và có nguồn gốc từ những con tôm bố mẹ được nuôi với những quy tắc phát triển số lượng bố mẹ nghiêm ngặt.
Các con tôm bố mẹ này được tạo ra thông qua những quy trình kiểm dịch rộng rãi. Những quy trình đó đưa đến các thể hệ F1 sạch mầm bệnh có nguồn gốc từ tôm bố mẹ đánh bắt tự nhiên (Lozt, 1997). Chỉ khi được nuôi và giữ trong những điều kiện này ta mới có thể có được các giống SPF thực sự. Hiện chưa có một quy tắc thống nhất trên phạm vi quốc tế đối với sự phát triển của tôm SPF và dĩ nhiên là tồn tại sự khác biệt về chất lượng của các giống SPF khác nhau.
Một khi những con tôm này được đưa ra khỏi các cơ sở sản xuất SPF, chúng không còn được coi là SPF mặc dù chúng có thể vẫn sạch mầm bệnh.
Một khi ra ngoài cơ sở SPF, những con tôm đó sẽ được gọi là Siêu khỏe (Hight Health – HH) vì chúng dễ có nguy cơ nhiễm bệnh lớn hơn (so với khi ở trong trại sản xuất), trong trường hợp nếu chúng được đưa vào một cơ sở tốt, có truyền thống về các quy đinh giám sát dịch bệnh và an toàn sinh học.
Nếu được đưa vào những nơi khác, chẳng hạn như vào một nơi nuôi vỗ không đạt an toàn sinh học, một trại giống hay một đầm nuôi, chúng sẽ không còn được gọi là SPF hay HH vì lúc này chúng ở trong môi trường có nguy cơ lây nhiễm cao.
Mặt trái tiềm tàng của những con tôm SPF là chúng chỉ sạch một số bệnh nhất định đã được kiểm tra. Có nghĩa là sẽ bao hàm những mầm bệnh đã được biết đến là gây những tổn thất lớn đối với ngành nuôi tôm như đốm trắng (WSSV), đầu vàng (YHV), Taura (TSV), hoại tử cơ (IHHNV), BPV và hoại tử gan tụy (HPV) cũng như các bào từ nhỏ, bào tử đơn (haplosporidians), gregarine, giun tròn (nematodes) và censtodes. Mặc dù đã trải qua sự sàng lọc như vậy nhưng đối với những loại virus mới chưa bộc lộ hoặc “bí ẩn” có thể xuất hiện song do bởi chúng chưa được nhận diện nên vẫn có thể thoát khỏi sự kiểm dịch. Ví dụ điển hình trong tài liệu của Brock và ctv (1997) cho rằng tôm ở Brazin và Colombia bị bệnh Taura (TSV) là do các con tôm SPF được đưa từ Hawaii tới. Tại thời điểm lúc bấy giờ TSV chưa được biết đến là một nguyên nhân gan nên bệnh virus và đã không được kiểm tra trong các quy tắc SPF.
Thêm vào đó, những bệnh dịch mới có thể xuất hiện do những đột biến của những vi sinh vật vốn trước kia không phải là mầm bệnh gây nên – ví dụ như các loại virus ARN có khả năng đột biến cao – nên vẫn có khả năng sự du nhập tôm SPF có thể không loại trừ sự du nhập của mầm bệnh.
Một vấn đề nữa cần nói đến là nếu tôm SPF được nuôi trong các cơ sở có lượng virus cao có thể dẫn tới tỷ lệ tôm chết cao vì những con tôm sạch mầm bệnh không nhất thiết là những con tôm kháng bệnh tốt hơn so với những con tôm không sạch mầm bệnh, ngược lại, trong một số trường hợp chúng còn kháng bệnh kém hơn. Chính vì thế, tôm sạch mầm bệnh thích hợp trong hệ thông nuôi an toàn sinh học hơn. Điều này có thể giải thích lý do tại sao những trại nuôi không đảm bảo an toàn sinh học ở Châu Mỹ La Tinh lại dựa nhiều vào tôm SPR (tôm giống kháng bệnh) chứ không phải là tôm SPF.
Hình tôm thẻ xanh và tôm thẻ chân trắng
Cần cân nhắc khi mua các dòng SPF để bắt đầu các chương trình thuần hóa ở các nước khác là những dòng đó có thể được cho giao phối tự do và gồm toàn những con có quan hệ huyết thống với nhau. Điều này có nghĩa là những thế hệ tương lai của những con tôm chỉ dựa trên những dòng này sẽ có thể dẫn tới tình trạng giao phối gần trong vài thế hệ. Giao phối cận huyết đã được nhấn mạnh trong các dòng tôm xanh Nam Mỹ (P. stylirostris) được nuôi ở Tahiti trong 22 thế hệ (Bierne và ctv, 2000), các dòng tôm chân trắng P. vanamei) nuôi nhốt với đặc điểm là khả năng chống chịu TSV giảm dần so với những con tôm đánh bắt từ tự nhiên và xuất hiện các dị hợp tử (Jone và Lai, 2003).
Tôm kháng mầm bệnh (SPR - Specific Pathogen Resistant)
SPR cũng là một thuật ngữ bị hiểu sai. Nó diễn tả một đặc điểm di truyền của tôm về khả năng kháng lại một mầm bệnh nhất định. Tôm SPR thường là kết quả của một chương trình gây giống nhất định được thiết kế để tăng khả năng kháng bệnh đối với một loại virus nhất định.
SPF và SPR là hai đặc điểm hoàn toàn độc lập với nhau và không thể bị lẫn lộn. Không phải tôm SPF đều là SPR và ngược lại.
Các nhà khoa học đã thực hiện nhiều công trình chọn giống tôm chân trắng (Penaeus vannamei) và tôm xanh (Penaeus stylirostris) để có tốc độ tăng trưởng và kháng lại nhiều mầm bệnh ngày càng tăng với rất nhiều kết quả khả quan từ năm 1970.
Hình thu hoạch tôm thẻ xanh (Penaeus stylirostris)
Trên thực tế, cũng có nhiều công ty tập trung vào việc nỗ lực tạo ra những dòng tôm kháng bệnh từ con giống SPF (gọi là SPF/SPR) và những dòng này đều có đặc điểm nổi trội là kháng lại với một mầm bệnh duy nhất, chủ yếu là TSV (hội chứng taura) hoặc IHHNV (hoại tử dưới vỏ và cơ quan tạo máu), song một số công trình khác lại chỉ ra rằng các dòng tôm với khả năng kháng nhiều bệnh TSV và WSSV (đốm trắng) có thể có được (Jim Wayban, per.com)
Giống tôm chân trắng SPR tại châu Mỹ La Tinh có sự đang dạng di truyền rất lớn và xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau (cả nguồn sạch mầm bệnh và không sạch bệnh) và đã được chọn lọc từ những con còn sống sau nhiều đợt dịch bệnh ở các ao nuôi thương phẩm trong vòng 5 năm. Do dó, chúng có khả năng kháng nhiều bệnh như WSSV, TSV và IHHNV hơn là những con tôm SPF thuần túy, ngoài ra chúng có thể thích nghi đặc biệt với những điều kiện nuôi và bệnh mà chúng gặp phải tại các quốc gia khác nhau.
Sự phát triển của các dòng tôm kháng đốm trắng là một khả năng vì đốm trắng vẫn là bệnh dịch lớn nhất tại Châu Á nói chung. Các ứng dụng duy truyền học định lượng gần đây, bao gồm việc xác định các gene đánh dấu phân tử khác nhau liên quan đến khả năng tăng trưởng và kháng bệnh đã đưa ra phương pháp mà thông qua đó việc chọn lọc những dòng vừa lớn nhanh vừa kháng bệnh ngày càng trở nên có hiệu quả hơn.
Dòng tôm xanh chọn lọc, thường có tên thương mại là “tôm siêu khỏe” đã được kiểm chứng là kháng 100% IHHNV. Tôm nhỏ được đưa vào môi trường có bệnh nuôi thử, trong 30 ngày, chúng hoàn toàn có khả năng “chịu đựng bệnh” chứ không phải là kháng bệnh vì loài virus này không “sinh sôi nảy nở” được trong tôm.
Cũng cần biết rằng, chẳng hạn tôm “SPR kháng mầm bệnh TSV” là chỉ kháng với một số giống TSV nhất định chứ không phải là tất cả.
Nguồn: Lược trích từ trang 32 – 36/99 - “Introductions and movement of Penaeus vannamei and Penaeus stylirostris in Asia and the Pacific – RAP Publication 2004/10 – FAO”.