Chài tôm kiểm tra định kỳ
Chài lấy mẫu kiểm tra tôm định kỳ là công cụ quan trọng hỗ trợ sản xuất và quản lý sức khỏe tôm nuôi. Tuy nhiên, do nhiều lí do, việc chài lấy mẫu có thể chính xác hoặc không. Vậy nên, cần phải xác định các yếu tố ảnh hưởng đến độ chính xác của chài lấy mẫu tôm và có phương pháp hạn chế sai sót.
Ước tính số lượng và tỉ lệ sống có thể khá chính xác nếu thực hiện đúng hoặc có thể không chính xác do nhiều lí do.
1. Tại sao cần lấy mẫu tôm kiểm tra định kỳ
Kiểm tra mẫu tôm định kỳ nhằm cung cấp các thông tin tổng quát về đàn tôm thông qua việc quan sát số nhỏ cá thể lấy mẫu, từ đó giúp giám sát đàn tôm như xác định trọng lượng trung bình của từng cá thể, ước tính số lượng và trọng lượng đàn tôm, đánh giá tình trạng sức khỏe chung và kiểm tra kí sinh trùng hoặc các mầm bệnh tiềm ẩn
Lấy mẫu tôm thường thực hiện bằng cách dùng chày. Quản lý sàng ăn đúng cách cũng có thể ước lượng khá chính xác lượng tôm có trong ao dựa vào lượng thức ăn hằng ngày so với phần trăm trọng lượng thân.
Lấy mẫu thường thực hiện 1 – 2 tuần/lần.
2. Chài lấy mẫu đánh giá sức khỏe
Tôm nuôi cần được lấy mẫu hàng tuần, thậm chí hàng ngày nếu cần thiết, và thường xuyên kiểm tra các tổn thương như các đốm, dị dạng, hoại tử do vi khuẩn, đỏ đuôi, phụ bộ, tình trạng ăn và hoạt động.
Nếu xuất hiện dấu hiệu bất thường cần tiến hành kiểm tra ngay, bao gồm kiểm tra lâm sàng, làm mô bệnh học và nếu cần thiết có thể chạy PCR. Mục tiêu việc này là để xác định bất kỳ vấn đề hoặc các bệnh ngay lúc bắt đầu, thời gian và nguồn nhiểm, và ngay lập tức giải quyết vấn đề.
Kiểm tra trực quan mẫu tôm thường có thể phát hiện triệu chứng tổng quát của bệnh. Trong ảnh là tôm thẻ 30 ngày bị đốm trắng, nhìn thấy rõ trên giáp đầu ngực. Hình bên trái là đốm trắng dưới kính hiển vi.
Có 2 phương pháp lấy mẫu: ngẫu nhiên và chọn lọc
Trong phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên, tôm được lấy mà không có chọn lựa, trong chài hoặc sàng ăn. Phương pháp này thường áp dụng nhằm đánh giá tỷ lệ tôm bệnh trong đàn.
Trong phương pháp lấy mẫu chọn lọc tôm được lấy dựa trên các dấu hiệu hoặc hoạt động bất thường như không có thức ăn trong dạ dày – ruột, bơi lội bất thường, tăng thời gian tập trung gần mặt nước quanh bờ, tôm có màu khác thường, xuất hiện các đốm,…Phương pháp chọn lọc dùng khi chuẩn đoán bệnh. Không lấy tôm chết, lấy những con bệnh hoặc sắp chết.
Tôm bệnh thường biểu hiện như sau:
- Mềm vỏ, trống ruột, ruột đứt đoạn
- Ngã nghiêng (nằm nghiêng) nhanh chóng sau khi chài lên
- Đục cơ trước 10 phút (khi chài lên) và thường xuyên xuất hiện đục cơ tại ao.
Bảng 1: Lượng tôm lấy mẫu ngẫu nhiên để xác định tỷ lệ nhiễm bệnh trong đàn (Theo Brock và Main 1994).
Tỷ lệ mầm bệnh/ bệnh trong đàn |
Lượng tôm kiểm tra |
1% hoặc nhiều hơn |
300 |
2% hoặc nhiều hơn |
160 |
5% hoặc nhiều hơn |
60 |
10% hoặc nhiều hơn |
30 |
Theo Brock và Main (1994), 5 – 10 tôm có triệu chứng là đủ để chuẩn đoán bệnh, nhưng nếu lấy mẫu để đánh giá sự hiện diện của mầm bệnh hay tình trạng nhiễm bệnh tiềm ẩn (như IHHNV, TSV, WSSV) thì nên áp dụng bảng 1.
3. Chài kiểm tra lượng tôm trong ao
- Ước tính tổng số lượng tôm trong ao theo công thức:
- Hoặc dựa vào lượng thức ăn theo trọng lượng thân để tính khối lượng tôm trong ao:
4. Sai số trong lấy mẫu
Kết quả ước tính lượng tôm và tỉ lệ sống có thể chính xác nếu thực hiện đúng hoặc rất không chính xác do nhiều nguyên nhân.
- Chù kỳ trăng:
Tại khu vực có sự khác nhau lớn về cường độ triều do chu kì mặt trăng, hoạt động của tôm rất khác nhau suốt kỳ nước cường (lúc rằm và đầu tháng) và nước kém (lúc trăng non và trăng già). Tôm thường năng động hơn trong kỳ trăng.
Nói chung, để nâng cao độ chính xác, lấy mẫu nên được thực hiện sau khi hạ thấp mực nước ao, thực hiện bởi người có kinh nghiệm, sử dụng chài lớn và lấy tại nhiều vị trí trong ao.
- Loài tôm nuôi:
Phân bố và tập tính của mỗi loài nuôi rất khác nhau. Clifford (1998) mô tả rằng tôm xanh (L. stylirostris) có xu hướng phân bố không đồng nhất trong các ao, thường xuyên tụ tập thành các cụm, đặc biệt là trong các ao nông. Ông nói, "Sự phân bố không đồng đều của tôm tạo ra sự khác biệt lớn trong lượng tôm lấy mẫu và khó ước lượng chính xác tỉ lệ sống."
- Mật độ và kích cỡ tôm:
Tôm nhỏ hơn thường tập trung tại vùng cạn của ao nên phải lấy mẫu đều khắp các khu vực ao. Ngoài ra, tôm lớn nhanh hơn, dễ dàng thoát khỏi lưới nên tôm chài lên thường có kích thước nhỏ hơn thực tế. Ví dụ, có ao khi chài lấy mẫu 1 ngày trước thu hoạch, trọng lượng trung bình của tôm là 18g. Vào ngày tháo nước thu hoạch, trọng lượng tôm trung bình đạt 20 – 21g.
Độ chính xác của việc lấy mẫu sẽ tăng theo mật độ tôm nuôi.
- Đáy ao:
Đáy không bằng phẳng sẽ gây sai số khi lấy mẫu. Chài không phủ kín vùng đáy gồ ghề có thể làm tôm thoát ra, hoặc đáy có nhiều rễ cây có thể gây vướng chài, hay tôm đào hang trên đáy mềm và trốn thoát. Khi này, đòi hỏi phải hiệu chỉnh cao sau khi thu mẫu.
- Nước ao:
Dòng chảy: nước chảy (như trong quá trình trao đổi nước) làm tôm phân bố không đồng đều, thường tụ tập gần dòng chảy.
DO: trong những ao hàm lượng oxy hòa tan (DO) thấp, tôm có thường phân bố không đều, thường ở gần mặt nước hoặc khu vực cạn giàu oxy
Nhiệt độ: nước lạnh làm tôm chậm hơn nên, có thể làm cho lượng tôm chài được nhiều hơn so với lúc nhiệt độ nước tối ưu
Độ sâu: nước càng sâu, chài xuống đáy càng chậm, khả năng tôm thoát ra càng nhiều
- Chài dùng lấy mẫu
Nếu số liệu chài mẫu dùng để so sánh thì mỗi ao, mỗi vụ nên chỉ sử dụng một chài duy nhất. Có 2 loại chài là chài rút và chài bung, nên dùng chài rút vì nó đóng hoàn toàn – ngăn tôm thoát ra.
Nên dùng chài lớn nhất và nặng nhất có thể. Mắt lưới đề nghị 0,3 - 0,6cm (1/4- to 1/8-inch) cho tôm ấu niên và 0,9 cm (3/8-inch) cho tôm lớn. Giữa các ao trong 1 vụ nên dùng chài có kích thước giống nhau để tiện so sánh kết quả.
Thêm nữa, độ mở đường kính của chài khi xuống nước rất khác nhau và ảnh hưởng lớn đến kết quả. Cần xác định diện tích phủ chài bằng cách thực hiện vài lần trong ao nước trong có độ sâu từ 50 – 100cm, sau đó đo và tính diện tích phủ trung bình. Điều này còn giúp tính ra hệ số điều chỉnh cho những cỡ chài khác nhau dựa trên lượng tôm ước tính khi thu mẫu và lượng tôm thu hoạch thực tế. Theo thực nghiệm sau thu hoạch, diện tích bao phủ của chài tới đáy ao chỉ bằng 30% diện tích ước lượng. Thêm nữa, ao sâu khác nhau thì diện tích bao phủ khác nhau.
- Khu vực lấy mẫu
Vị trí lấy mẫu nên được đánh dấu bằng phao hoặc cột gỗ và nằm ngoài các kênh trong ao. Bình quân 5 vị trí/ha. Vị trí lấy mẫu càng nhiều, độ chính xác của kết quả càng cao.
- Con người
Những người chài mẫu khác nhau có thể cho ra kết quả hoàn toàn khác nhau trong cùng 1 ao. Ngoài ra, cần xác định số lượng ao cần chài mẫu/người/ngày vì kết quả cũng sẽ bị ảnh hưởng khi người lấy mẫu mệt mỏi.
Lấy mẫu đúng sẽ đưa đến kết quả có tính đại diện cao
Để giảm sai số khi lấy mẫu, cần thực hiện các bước sau:
- Tất cả các ao > 30 ngày tuổi cần được lấy mẫu hàng tuần tại 5 - 10 vị trí cố định cho mỗi hécta (ha).
- Sử dụng chài có trọng lượng chì tối thiểu 3 kg. Nếu lấy mẫu trong ao cạn hay ao nươc trong, trọng lượng chì phải đạt 4 - 6 kg.
- Nên chài vào sáng sớm hoặc ban đêm, khi tôm phân bố đều: tôm thẻ chân trắng rất năng động vào ban đêm và phân bố đều trong khi ban ngày chúng có xu hướng tìm góc ao sâu hơn nên cần chài quanh ao để có số liệu chính xác. Lượng tôm chài được nhiều nhất vào ban đêm từ 22h – 02h sáng, khi tôm rất năng động và thường nhìn thấy ở gần bờ ao. Lượng chài được ít nhất vào lúc 14h, lúc này khó nhìn thấy tôm nhất và ít hoạt động.
- Nên chọn cùng một thời điểm giống nhau để chài tôm giữa các lần.
- Không gây tiếng ồn gần điểm lấy mẫu hoặc tại nơi điểm lấy mẫu.
- Không cho ăn hoặc thay nước ngay trước hoặc trong khi lấy mẫu.
- Tránh thay người thiết bị và chu kỳ lấy mẫu.
- Tính lượng tôm dựa trên số trung bình của 3 – 4 tuần lấy mẫu nhằm giảm các sai số.
Nguồn: thuysan247.com