Những yếu tố quan trọng cần lưu ý để giảm thiểu chi phí nuôi tôm chân trắng

Menu

vpas190729@gmail.com 0917 15 27 27
Những yếu tố quan trọng cần lưu ý để giảm thiểu chi phí nuôi tôm chân trắng

Những yếu tố quan trọng cần lưu ý để giảm thiểu chi phí nuôi tôm chân trắng

    Theo Ravikumar Bangarusamy, với giá tôm đang có xu hướng giảm, việc kiểm soát được giá thành sản xuất là nguyên tắc cơ bản cần lưu ý. (Người dịch - Ông Ravikumar Bangarusamy là chuyên gia đã có 21 năm hoạt động trong ngành thủy sản tại Ấn Độ và khắp thế giới).

     

    Ấn Độ đã đạt đến đỉnh cao với tư cách là quốc gia nuôi và xuất khẩu tôm lớn nhất vào năm 2019 và sẽ tiếp tục như vậy vào năm 2020. Tuy nhiên, với tình hình hiện nay, nhu cầu và giá thế giới thấp hơn năm 2019, vì vậy mối quan tâm của người nuôi, không chỉ giới hạn ở Ấn Độ, là làm thế nào để tiết kiệm chi phí hơn trong chuỗi sản xuất.

     

    “Người sản xuất không thực sự kiểm soát được giá thị trường; do đó, kiểm soát chi phí sản xuất là việc hết sức cần thiết, ”Ravikumar Bangarusamy, Tổng Giám đốc và phụ trách kỹ thuật của Growel Feeds, Ấn Độ, cho biết. “Trong năm 2019, giá thành sản xuất trung bình là 170 INR/kg (tương đương 2,42 USD/kg) đối với tôm 70 con/kg. Giá bán đối với tôm cỡ 70 con/kg từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2019 là 248 INR/kg ( tương đương 3,5 USD/kg) thì người nuôi có thể đảm bảo lợi nhuận tốt. Tuy nhiên, khi giá bán giảm xuống dưới mức đó vào năm 2019 và nhu cầu thu mua thấp hơn và bây giờ là 225 INR/kg (tương đương 3,21 USD/kg), bắt buộc người nuôi tìm cách tăng tỷ suất lợi nhuận”. (Người dịch – INR là đơn vị tiền tệ của Ấn Độ - gọi là Rupee – 01 Rupee tương đương  khoảng 316 đồng Việt Nam tại thời điểm hiện nay)

     

    Trong bài phỏng vấn này, Ravikumar đề cập đến một số vấn đề quan trọng mà người nuôi quan tâm và đưa ra cách quản lý chúng.

     

    Các chiến lược gì nhằm mục đích giảm thiểu chi phí sản xuất và tối đa hóa lợi nhuận?

     

    Dựa trên các thử nghiệm đã tiến hành, chúng tôi thấy được các khả năng giảm chi phí sản xuất. Trong quá trình sản xuất tôm cỡ 70 con/kg, chúng tôi có chi phí sản xuất là 214 INR/kg (3,05 USD/kg) với mật độ thả nuôi là 25 PL/m2 và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) là 1,0 và chi phí cũng thấp tương tự đối với trường hợp thả mật độ 60 PL/m2 có giá thành 175 INR/kg (2,5 USD/kg) và FCR là 1,2. Giá thành là 181 INR/kg (2,6 USD/kg) ở mật độ thả 45 PL/m2 và FCR là 1,1. Kết quả nhất quán đạt được thông qua sự kết hợp của thực hành quản lý tốt nhất, sử dụng thức ăn tốt và men vi sinh cũng như sử dụng SOPs do Growel chủ trương (các qui trình nuôi chuẩn của công ty Growel).

     

    Trong 3 năm qua, chúng tôi đã sử dụng cùng kỹ thuật lên men, thức ăn và máy cho ăn trong hơn 7 mùa vụ trong các mô hình trình diễn tại trang trại của khách hàng chúng tôi. Mật độ nuôi dao động giữa 35-50 PL/m2 và thời gian của vụ nuôi dao động từ 59 – 156 ngày/vụ. Hầu hết các ao đều có tỷ lệ sống khoảng 80% và ở rất ít ao tỷ lệ sống thấp hơn 80%. FCR là 1,1 vì trọng lượng tôm bình quân là 46,28g (21.6 con/kg); ngay cả tôm cỡ nhỏ có FCR chỉ dưới 1,0.

     

    Dựa trên đánh giá chi phí sản xuất điển hình, thức ăn chăn nuôi chiếm gần 50-60% (Hình 1). Vào năm 2019, giá tôm giảm, người nuôi giảm mật độ nuôi, trung bình hiện nay là 30-35 PL/m2 so với hiện này là 40-60 PL/m2.

     

     

    Hình 1. Một điển hình ví dụ về chi phí (%) trong quá trình sản xuất tôm vannamei ở Ấn Độ

     

    Một cách để giảm thiểu chi phí sản xuất và tối đa hóa lợi nhuận là thực hiện nghiêm ngặt các qui tắc thực hành quản lý tốt nhất (BMP) ở các giai đoạn nuôi khác nhau và phát triển các qui trình chuẩn cụ thể tại trang trại. Điều quan trọng là người nuôi phải lựa chọn đầu vào chất lượng tốt và kiểm tra tính hợp lệ của hóa chất và các chất đầu vào khác trước khi sử dụng. Tại TARS 2019, tôi đã nói rằng ngành công nghiệp thức ăn có thể đưa ra các giải pháp chăm sóc sức khỏe tôm, nhưng không thể thay thế việc quản lý trang trại tốt.

     

    Vào đầu vụ nuôi, thả tôm giống có chất lượng tốt nhất có ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng và lợi nhuận của trại tôm. Tuy nhiên, có một vấn đề nan giải là các trại giống cung cấp lượng tôm giống có thể nhiều hơn tới 20-30% so với số lượng mua. Thông thường, tất cả tôm giống được thả vào ao. Do đó, làm thế nào để chúng ta ước tính các con số khi tính toán lượng thức ăn và tỷ lệ sống sót cuối cùng để tính chi phí sản xuất thực tế? Chúng ta biết rằng hiệu quả sử dụng thức ăn tốt nhất phải đi kèm với việc biết rõ lượng giống thả trong ao. Tôi khuyên bạn nên tính toán tỷ lệ sống sau khi thả bằng cách lắp đặt các hapa trong ao (hapa là vèo lắp trong ao nuôi, dùng ước lượng tỷ lệ sống).

     

    Ở Ấn Độ, hầu hết người nuôi có quy mô nhỏ và chúng tôi đã phát triển SOP để thúc đẩy nuôi tôm bền vững bằng cách có giai đoạn ương giống tại trang trại, sử dụng ao đất hoặc ao lót bạt với chương trình an toàn sinh học tốt nhằm tạo ra con giống chất lượng tốt hơn cũng như giảm chi phí và thời gian nuôi trong giai đoạn thương phẩm. Ưu điểm của giai đoạn ương là loại bỏ những con yếu trước khi chuyển sang giai đoạn nuôi thương phẩm. Ví dụ, trong một trang trại, chúng tôi thả giống có kích cỡ từ 0,5 đến 1,2g/con và thời gian nuôi thương phẩm chỉ hơn 59 ngày. Sản lượng đạt được là 2,7 tấn với trọng lượng trung bình là 18,9g/con, tỷ lệ sống là 83,5% và FCR là 1,03. Không có dịch bệnh xảy ra.

     

    Quản lý thức ăn và dịch bệnh là những yếu tố chính trong hoạt động sản xuất và có ảnh hưởng đến chất lượng nước và tỷ lệ sống. Cho ăn quá mức làm người nuôi phải chi nhiều tiền hơn vào quản lý chất lượng nước và điều trị bệnh. Để quản lý bệnh tật, vi khuẩn nên được kiểm tra thường xuyên và tốt hơn là cần hiểu sự cân bằng giữa vi khuẩn Vibrios và probiotic. Cách phát hiện bệnh sớm có thể được thực hiện bằng cách đào tạo công nhân trang trại.

     

    Loc Tran cho thấy vibrios là tác nhân chính gây bệnh phân trắng (WFD) trong các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm. Nhiễm Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) trước có thể làm tăng mức độ nghiêm trọng của WFD. Có hai loại WFD, một loại chỉ có thể điều trị được nếu chỉ do vibrios gây ra và loại không thể điều trị được do cả vibriosis và EHP. Do đó, chúng ta có thể quản lý WFD nếu có ao sạch, nước sạch và giống sạch, hệ vi sinh vật hoàn chỉnh để kiểm soát vibrio trong suốt chu kỳ nuôi, quản lý chất thải, ương giống tại trang trại và sử dụng thức ăn chuyên biệt. Đối với vibrio gây bệnh, chúng tôi khuyến nghị rằng khuẩn lạc màu xanh lá cây phải nhỏ hơn 10² CFU/g tôm giống và khuẩn lạc màu vàng phải là 10³ CFU/g tôm giống trước khi thả giống.

     

    Với việc thức ăn công nghiệp chiếm 50-60% chi phí sản xuất, ông nghĩ gì về việc quản lý thức ăn?

     

    Điều quan trọng cần nhớ là để sử dụng thức ăn hiệu quả bắt đầu cần thực hành tốt việc quản lý thức ăn  từ khi thả giống. Một cách để nhìn vào tầm quan trọng của nó là cứ cải thiện 0,1 FCR thì lợi nhuận vụ mùa có thể tăng thêm 100 USD/tấn tôm thu hoạch và cứ tăng 0,1 FCR sẽ tạo ra thêm 90kg chất thải hữu cơ/ tấn tôm sản xuất ra.

     

    Có nhiều loại thức ăn protein cao (40% CP) và thấp (25% CP) có sẵn trên thị trường. Nhưng khi sử dụng nguồn thức ăn đạm cao, điều quan trọng là phải có cách quản lý thức ăn nghiêm ngặt. Việc chuyển đổi sang thức ăn tiết kiệm là điều cần thiết, nếu không chi phí sản xuất sẽ tăng lên. 

     

    Quan sát của ông về tỷ lệ và tần suất cho ăn là gì?

     

    Tôi khuyên bạn nên sử dụng thức ăn chất lượng cao hoặc thức ăn chuyên biệt với 6-8 lần cho ăn mỗi ngày trong giai đoạn ương. Kích thước hạt thức ăn là quan trọng. Tôm cỡ 4g tiêu thụ trung bình 6 viên một bữa (4,2% trọng lượng cơ thể/ngày). Khi tần suất cho ăn tăng lên, sự tăng trưởng tổng thể của động vật sẽ tốt hơn nhiều. Cho ăn quá mức tại trang trại xảy ra khi hơn 10% ruột tôm chứa thức ăn một giờ trước khi cho ăn. Đối với cho ăn ít, khoảng 40% tôm sẽ có thức ăn tự nhiên trong ruột một giờ sau khi cho ăn. Chúng tôi biết rằng việc cho ăn phải dựa trên nhiệt độ và việc quan sát đường ruột là rất quan trọng để quản lý thức ăn. Tỷ lệ cho ăn phụ thuộc vào nhiệt độ. Khi nhiệt độ tăng, thời gian chuyển hóa thức ăn trong ruột chỉ mất 45 phút. Bất kỳ thức ăn nào không được tiêu hóa sẽ tạo thêm chất hữu cơ ở đáy ao, ảnh hưởng đến chất lượng nước.

     

    Do đó, tỷ lệ cho ăn hàng ngày là đặc thù của trang trại. Chúng tôi phát triển những điều này dựa trên quan sát và ghi chép dữ liệu, sử dụng sàng ăn kết hợp bảng cho ăn và điều chỉnh hàng ngày trong giới hạn dưới và trên dựa trên sinh khối và sức chứa của ao. Tốt nhất, chúng ta nên thực hành kết hợp giữa đánh giá thực tế sàng ăn và bảng cho ăn, kiểm tra sàng ăn, quan sát và kiểm tra màu ruột để điều chỉnh tỷ lệ cho ăn hàng ngày, kiểm soát FCR và giảm giá thành sản xuất.

     

    Hiệu quả của máy cho ăn trong việc cải thiện quản lý cho ăn?

     

    Theo tôi, sử dụng lao động thủ công (cho ăn bằng tay theo cách truyền thống – người dịch) cần có sự giám sát chặt chẽ và khả năng sai sót cao. Máy cho ăn tự động tốt hơn nhiều so với cho ăn thủ công và có hai loại máy cho ăn tự động: một loại có khẩu phần ăn do người nuôi cài đặt và phân phối thức ăn bằng cách sử dụng bộ đếm thời gian; loại còn lại là máy cho ăn âm thanh trong đó khẩu phần được thúc đẩy bởi hoạt động cho ăn của tôm, được truyền đến máy cho ăn dưới dạng tín hiệu âm thanh. Chúng cũng có thể cung cấp thông tin thời gian thực về các thông số chất lượng nước (oxy hòa tan, pH, nhiệt độ, v.v.)

     

    Khi chúng tôi bắt đầu vụ mùa máy cho ăn sử dụng âm thanh, FCR của trang trại là 1,1. Trong 2 năm, FCR tổng thể của trang trại đạt dưới 0,9. Người nuôi cần tự động hóa trong tương lai. Cần nhớ một lợi thế của việc sử dụng máy cho ăn tự động là người điều hành trang trại của bạn sẽ không cần phải xuống ao. Hơn nữa, chất thải tích tụ trong ao chỉ cách máy cho ăn tự động trong khoảng từ 6-10 m và do đó dễ dàng loại bỏ chúng giữa các vụ nuôi.

     

    In your opinion, what are the major disease threats and how can we manage them?

     

    Nếu chúng ta xem xét các vấn đề trong sản xuất vào năm 2019, chúng ta thấy có bệnh đốm trắng (WSSV), sau đó là EHP, hội chứng tử vong liên tục (RMS), bệnh phân trắng WFD. Chúng tôi đã có báo cáo về tốc độ tăng trưởng chậm ở hầu hết các khu vực do EHP và WFD. EHP không trực tiếp gây chết, nhưng vi khuẩn có thể gây chậm phát triển nghiêm trọng và ảnh hưởng đến năng suất của trang trại. Để được quản lý hiệu quả, mức độ nghiêm trọng của bệnh cần phải tương quan với hiệu suất tăng trưởng và FCR.

     

    Các xét nghiệm sơ bộ phải được tiến hành ở cấp trang trại để xác định mức độ nghiêm trọng của EHP và được phân loại là cấp 1, 2 và 3. Trong hầu hết các trường hợp, nhiễm trùng cấp 1 có thể hồi phục sau khi điều trị; tuy nhiên, khi nhiễm bệnh đến cấp độ 3, tôi khuyến cáo nên thu hoạch vụ tôm. Tốc độ tăng trưởng hàng tuần là 0,7g/tuần là chấp nhận được. Tôi đã khuyến cáo nông dân nên tính toán hiệu suất tăng trưởng (không được thấp hơn 0,7g / tuần) và kiểm soát FCR xuống dưới 1,3 hoặc 1,2. Tôi đã giải thích cách lấy mẫu gan tụy và phân loại mức độ nghiêm trọng của EHP ở các cấp độ khác nhau. Nếu FCR rất cao vào cuối chu kỳ, kết quả có thể dẫn đến hòa vốn hoặc thua lỗ.

     

    An toàn sinh học mang lại hiệu quả cao trong việc quản lý dịch bệnh nhưng cũng là thách thức để áp dụng trong hầu hết các hệ thống canh tác thực tế. Tại Ấn Độ, 80% người nuôi có quy mô nhỏ với khoảng 2-3 ao nuôi, và rất khó để thực hiện các hệ thống an toàn sinh học tốt.

     

    What are your approaches on water quality management?

     

    Vi khuẩn sinh sôi nhanh chóng sau mỗi 12 phút kể từ khi khử trùng và người nuôi thả tôm vào ao khi lượng vi khuẩn đang ở mức cao nhất. Thông thường, người nuôi dùng chế phẩm sinh học mỗi tháng một lần hoặc 2 tuần một lần. Họ cần dùng loại probiotic (chế phẩm sinh học) chất lượng tốt với tần suất cách nhau 3 ngày/lần và chỉ sử dụng 100 đến 200g sau khi lên men.

     

    Để kiểm soát dịch bệnh, chúng tôi khuyến nghị  nên lên men các chế phẩm sinh học (sục khí và ủ - người dịch) để kích thích vi sinh tăng sinh khối và tận dụng chất hữu cơ. Nhưng để đạt hiệu quả cho việc này, chúng ta cần nước ngọt vô trùng, nguồn carbon, khoáng chất, chế phẩm sinh học và sục khí. Chúng tôi sử dụng các nguồn carbon khác nhau và tất cả các nguyên liệu đầu vào này phải được nấu chín trước khi lên men. Nước được xử lý bằng phương pháp thẩm thấu ngược hoặc khử trùng bằng clo và sau đó khử clo. Sau đó, nó được kiểm tra vibrio. Trong nghiên cứu của chúng tôi và tại các ao trình diễn, chúng tôi không gặp vấn đề với WFD hoặc WSSV; tuy nhiên, chúng tôi gặp vấn đề với RMS khi hàm lượng hữu cơ tăng vào cuối chu kỳ nuôi. Lời khuyên của tôi là nếu việc sử dụng men vi sinh bị trì hoãn, lượng Vibrio sẽ tăng lên và men vi sinh sẽ mất tác dụng. Ở thời gian áp dụng 110 ngày (thời gian nuôi 100 ngày + 10 ngày chuẩn bị ao), chi phí đầu vào sản phẩm của chế phẩm sinh học thấp hơn 0,1 USD/vụ/ha.

     

    In summary, walk us through your recommendations to lower production costs.

     

    Chúng ta cần bắt đầu với việc thả tôm không mang mầm bệnh, đếm số lượng và tiến hành kiểm tra Vibrio. Số lượng vi khuẩn trên đĩa TCBS cho biết rất nhiều về chất lượng của tôm giống trước khi đem đi phân tích PCR. Chỉ sử dụng tôm giống có chất lượng tốt nhất để thả giống, nó sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến sản lượng và lợi nhuận của trại nuôi tôm.

     

    Khi cho ăn cần quản lý chặt chẽ, tránh cho ăn quá mức và sử dụng các loại thức ăn tăng cường miễn dịch. Đối với việc quản lý ao nuôi, hãy giải quyết vấn đề EHP trong quá trình chuẩn bị ao nuôi và giữ cân bằng hệ vi sinh vật khỏe mạnh bằng quá trình lên men hiếu khí và kỵ khí. Đối với men vi sinh, hãy sử dụng đúng loại và đã được kiểm định sản phẩm trước khi sử dụng để đạt hiệu quả tốt nhất và kiểm soát được chi phí sản xuất. Cuối cùng, việc loại bỏ bùn và kiểm soát tải lượng hữu cơ trong ao là điều cần thiết để có một vụ nuôi thành công.

     

    Nguồn: Aquaculture Asia Pacific - Sep/Oct 2020, Volume 16 Number 5

     

    Dịch bởi: KS. Nguyễn Thành Quang Thuận - VPAS JSC