(13) Ương cá chình – thức ăn và cho ăn

(13) Ương cá chình – thức ăn và cho ăn

Thức ăn tự nhiên là thức ăn ưa thích của cá chình thủy tinh mới thả. Tubifex sp. (trùn chỉ) là loại thức ăn được chọn lựa sử dụng trong hai tuần đầu tiên hoặc cho đến khi cá đạt đến 0,3 g thể trọng trước khi giảm dần để chuyển sang thức ăn nhân tạo.

Thức ăn tự nhiên là thức ăn ưa thích của cá chình thủy tinh mới thả. Tubifex sp. (trùn chỉ) là loại thức ăn được chọn lựa sử dụng trong hai tuần đầu tiên hoặc cho đến khi cá đạt đến 0,3 g thể trọng trước khi giảm dần để chuyển sang thức ăn nhân tạo.

 

 

Hình trùn chỉ (Tubifex sp.)

 

 

Hình trùn chỉ (Tubifex sp.) được rửa sạch trong các bể và được giữ sống để cho cá chình ăn

 

Trùn chỉ phải được rửa kỹ để đảm bảo chúng sạch trước khi cho cá ăn. Một số trang trại ương cá chình sử dụng trứng cá ngừ trộn (nếu có) trong ba ngày đầu tiên. Thịt trai, sò cũng được dùng làm thức ăn ban đầu.

 

Tuy nhiên, việc sử dụng trứng cá ngừ và thịt trai có thể gây ô nhiễm nước nuôi. Thịt bạch tuộc băm nhỏ cũng là một loại thức ăn tự nhiên được sử dụng trong những ngày ương nuôi đầu tiên. Tôm ngâm nước muối hoặc artemia cũng được sử dụng khi có sẵn mặc dù tốc độ tăng trưởng của cá chình thủy tinh dùng loại thức ăn tươi sống này không khả quan.

 

Thức ăn nhân tạo thường được chuẩn bị ở dạng bột nhào bằng cách thêm nước và chất kết dính vào. Tinh bột khoai tây alpha được sử dụng như nguồn carbohydrate và chất kết dính trong thức ăn của Nhật Bản hoặc Hàn Quốc, nhưng đắt tiền.

 

Các chất khác như bánh mì, lúa mì hoặc bột gạo nếp có thể dùng làm chất kết dính sẽ giúp thức ăn có độ ẩm ổn định và ngăn ngừa chất dinh dưỡng trong thức ăn bị rửa trôi vào nước. Thức ăn đã chuẩn bị được đặt trong khay cho ăn hoặc “lồng” đặt ở trong bể ương. Các khay cho ăn cũng cần đặt ở khu vực cố định để giúp cá có thể ăn vào những thời gian nhất định trong ngày.

 

 

Hình thức ăn được cho cá chình ăn trong cá khay hoặc "lồng"

 

Nhiều trang trại nhập khẩu thức ăn từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc vì các loại thức ăn chuyên biệt này cho hiệu suất tăng trưởng tốt hơn so với thức ăn được sản xuất trong nước. Tuy nhiên, thức ăn nhập khẩu có giá cao gấp 5 lần so với thức ăn được sản xuất tại địa phương.

 

Một số trang trại chọn phương thức chuyển đổi thức ăn từ giai đoạn cho ăn trùn chỉ sang giai đoạn cho ă thức ăn nhập khẩu chất lượng cao trước khi chuyển hoàn toàn sang thức ăn sản xuất tại địa phương.

 

Giai đoạn đầu khi chuyển sang thức ăn nhân tạo, cá chình thường có tốc độ tăng trưởng chậm và tỷ lệ sống thấp. Chất kích thích sức ăn và một số chất dinh dưỡng khác có thể được thêm vào khẩu phần ăn thức ăn công nghiệp để cải thiện sức ăn cũng như tốc độ tăng trưởng.

 

Thịt trai và trùn chỉ có thể được sử dụng làm chất kích thích cho ăn. Các thành phần hỗn hợp này được trộn với thức ăn dạng sệt ẩm ở mức 20-30% trước khi cho cá ăn. Thức ăn cho cá chình điển hình chứa ít nhất 50% protein thô với bột cá là nguồn cung đạm chủ yếu và 10% lipid thô.

 

Việc cho ăn được thực hiện hai lần một ngày, thường là một lần cho ăn vào buổi sáng và lần còn lại vào cuối buổi chiều. Lượng thức ăn hàng ngày được điều chỉnh sau mỗi 15 hoặc 30 ngày dựa trên mức độ tăng trọng. Một giờ sau khi cho ăn, nước được thay một phần hoặc hoàn toàn để giữ môi trường sống cho cá sạch sẽ.

 

Lượng cho ăn hàng ngày là 5% đến 10% tổng sinh khối nếu sử dụng thức ăn khô. Con số này giảm xuống còn 3% tổng sinh khối khi cá chình đạt trọng lượng 3 g/con. Một số trang trại cho ăn ad-libitum để đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao nhưng điều này có thể tốn kém và có thể làm giảm hiệu quả chuyển đổi thức ăn.

 

Sử dụng thức ăn ẩm, khẩu phần thức ăn hàng ngày là ở mức 50% tổng sinh khối. Tuy nhiên, tùy thuộc vào nhiệt độ nước và mức tiêu thụ, khẩu phần thức ăn cần được điều chỉnh cho phù hợp. A. bicolor pacifica phát triển tốt ở 30 độ C trong khi A. marmorata yêu cầu nhiệt độ 28 độ C để đạt hiệu quả tối ưu sự phát triển.

 

Thử nghiệm ương cá chình thủy tinh được thực hiện tại AQD sử dụng loại bồn polyethylene nhỏ (dung tích 30 lit), thùng phuy nhựa (dung tích 80 lit) và bồn polyetylen lớn (dung tích 500 lit) trong hệ thống tĩnh. Trọng lượng cơ thể trung bình ban đầu của cá chình thủy tinh lúc thả giống khoảng 0,11 g. Cá chình thủy tinh được thả từ một đến bảy con/lít. Bồn nuôi được làm đầy bằng nước ngọt đã khử clo hoặc nước lợ 3 ppt ở mức 30 - 40% tổng thể tích. Lưới cũ, lưới nhựa hoặc ống nhựa pvc cũ được cung cấp làm nơi trú ẩn cho cá để giảm hành vi ăn thịt đồng loại và hành vi hung hãn của cá.

 

Hình thay nước sau khi cho cá chình ăn

 

 

Hình các dụng cụ được tận dụng để làm chỗ trú ẩn cho cá chình, hình trên là một con cá chình bị đồng loại ăn thịt

 

Bể ương được phủ bằng nhựa đen hai lớp để giảm cường độ ánh sáng. Việc làm này là để ngăn cá tự gây thương tích vì chúng có xu hướng bơi xuống trong điều kiện chiếu sáng.

 

 

Hình bể ương phủ bạt để hạn chế tổn thương cho cá

 

Một nghiên cứu về các chế độ cho ăn khác nhau đã chỉ ra rằng trùn chỉ tốt nhất cho sự tăng trưởng của cá chình thủy tinh A. bicolor khi được cho ăn trong vòng hai tháng. Từ thứ 3 đến tháng thứ 5, chế độ ăn thức ăn công nghiệp chứa khoảng 55% protein thô và 10% lipid thô bổ sung trùn chỉ là thích hợp nhất cho cá chình thủy tinh.

 

 

Hình thức ăn khô (trái) và thức ăn bán ẩm (phải) cho cá chình

 

Công thức thức ăn có các thành phần bột cá Đan Mạch, bột phụ phẩm gia cầm, men, sữa bột tách béo, hỗn hợp vitamin và khoáng chất và bột mì. Thức ăn được chuẩn bị bằng cách trộn khô tất cả các thành phần và thêm dầu (5 phần) và nước (50-60 phần) để tạo thành bột nhão.

 

Cá chình cũng hoạt động tốt hơn khi chúng được chuyển dần sang thức ăn bán ẩm so với chế độ ăn khô và ẩm có bổ sung trùn chỉ, nhưng tỷ lệ sống sót cao nhất là khi cho ăn thức ăn theo công thức ẩm.

 

Một số hình ảnh cho cá chình ăn bên dưới:

 

 

 

 

 

Nguồn: Maria Lourdes Cuvin-Aralar, Frolan Aya, Maria Rowena Romana-Eguia, Dan Joseph Logronio - Nursery Culture of Tropical Anguillid Eels in the Philippines - AQUACULTURE EXTENSION MANUAL NO. 65 - APRIL 2019

 

Lược dịch bởi: KS. CHÂU NGỌC SƠN – VPAS JSC